Trong lịch sử NBA, nhiều bản dự thảo kinh điển đã ra đời như Thế hệ kim cương 1984, Thế hệ vàng 1996, Thế hệ bạch kim 2003, v.v. Những tân binh này đã sản sinh ra những siêu sao tạo nên kỷ nguyên thống trị NBA trong nhiều mùa giải. Tuy nhiên, như người ta vẫn nói, mọi chuyện phải đảo ngược ở những thái cực. Chất lượng tổng thể của lớp tân binh này có thể nói là tệ nhất. Cả lớp chỉ có ba cầu thủ All-Star được sinh ra và nhiều cầu thủ nhanh chóng lụi tàn khỏi NBA sau khi vào NBA. Nghĩa là, tân binh NBA năm 2000 có thể bị gọi là “kẻ lừa đảo”. Cùng xem chất lượng của lớp tân binh này tệ đến mức nào nhé!

Chỉ có ba All-Stars và tất cả đều thất bại nhanh chóng.

Trước hết, hãy nói về ba tuyển thủ được chọn vào đội All-Star này. Họ là Kenyon Martin, Jamal Magloire và Michael Reed. Với tư cách là lựa chọn số 1 trong đợt dự thảo này, Martin thực sự đã thể hiện khá tốt sau khi gia nhập NBA, đặc biệt là sau khi Jason Kidd đến đội và trao cho anh một khoản tiền thưởng khổng lồ.

Vì vậy, anh ấy được coi là một trong những tiền đạo giỏi nhất ở Eastern Conference trong những năm đó. Anh ấy thậm chí còn đăng số liệu thống kê toàn diện về 19,1 điểm, 11 rebound, 1,1 kiến ​​​​tạo, 1,2 lần đánh cắp và 1,3 lần cản phá trong vòng loại trực tiếp 2003-04, đồng thời cũng được chọn vào đội All-Star. Nói một cách logic, ngay cả khi anh ấy không thể trở thành siêu sao, anh ấy vẫn có cơ hội trở thành người trong cuộc All-Star ổn định. Tuy nhiên, một chấn thương nghiêm trọng dần dần khiến anh trở thành một cầu thủ sàn, và cuối cùng anh dần trở thành một cầu thủ cổ xanh. Anh tuyên bố giải nghệ sau 15 mùa giải thi đấu tại NBA.

Hai người chơi All-Star còn lại là Reed, thủ lĩnh của Bucks. Được chọn ở vòng hai, anh nhanh chóng thể hiện kỹ năng bắn súng ấn tượng của mình. Anh ấy đã có màn trình diễn đáng kinh ngạc với 57 điểm trong một trận đấu và 26,7 điểm, 3,7 rebound và 2,3 kiến ​​​​tạo trong một mùa giải. Cùng với Martin, anh được chọn vào đội All-Star năm 2004. Ngoài ra, anh còn được chọn vào Đội Dream Eight và giành huy chương vàng tại Thế vận hội Bắc Kinh. Nhưng đáng tiếc là anh cũng qua đời sớm do vết thương quá nặng.

Magloire thu được nhiều lợi ích hơn từ Eastern Conference. Sau thời Jordan, Hội nghị phía Đông ngày càng suy tàn. Hầu hết các trung tâm nổi tiếng đều đi dự Hội nghị phương Tây. Vì vậy, ở mùa giải 2003–04, anh chỉ ghi trung bình 13,6 điểm, 10,3 rebound và 1,2 block mỗi trận. Anh ấy đã được chọn thành công vào đội hình All-Star. Điều này hoàn toàn không thể xảy ra ở Hội nghị phương Tây. Nói chung, ba tuyển thủ All-Star này cơ bản đều là cấp hai hoặc cấp ba, khó có thể gọi là nòng cốt. Đây chính xác là sự phản ánh chất lượng tổng thể của lớp tân binh đó.

Các lựa chọn cao đều được nhập khẩu song song và chỉ một số ít trong số đó đã có được chỗ đứng tại NBA.

Hãy nói về những người chơi khác. Ngoại trừ Martin, các cầu thủ cấp cao gần như đều là hàng nhập khẩu song song. Stromire Swift, lựa chọn tổng thể thứ hai, chắc hẳn đã rất quen thuộc với nhiều fan cũ. Anh ấy từng chơi cho Grizzlies và Rockets. Anh ấy có tài năng thể chất tốt, nhưng kỹ năng chơi gôn của anh ấy quá thô và chỉ số IQ chơi gôn thấp. Điều này khiến anh ta trở nên vô dụng ngoại trừ việc dunk. Anh chỉ ghi trung bình 8,4 điểm và 4,6 rebound mỗi trận trong sự nghiệp. Darius Myers, lượt chọn tổng thể thứ ba, từng được coi là "người kế nhiệm của Garnett", nhưng anh chưa bao giờ đạt được tiến bộ nào sau khi vào NBA. Anh chỉ ghi trung bình 10,1 điểm, 4,9 rebound và 1,9 kiến ​​​​tạo mỗi trận. Anh chỉ thi đấu 7 mùa giải ở NBA và bị loại trực tiếp. Ngoài ra, Marcus Fizer, lượt chọn thứ tư, Demar Johnson, lượt chọn thứ sáu và Chris Mihm, lượt chọn thứ bảy, đều có sự nghiệp rất trung bình.

Ngoài ra, bao gồm lượt chọn thứ chín Joel Przybilla, lượt chọn thứ mười Kenyon Dulin, lượt chọn thứ mười một Jerome Moiso và sau đó là Courtney Alexander, Martin Cleavers, Jason Kohler và những người khác, về cơ bản họ chỉ là những người qua đường ở NBA. Cho dù có thể sống sót trong một khoảng thời gian, họ cũng chỉ có thể đóng vai trò là người đóng vai trò cho đội của mình và hoàn toàn không phát huy được tài năng của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, những tân binh cao cấp ở hạng này về cơ bản đều là hàng nhập khẩu song song. Những đội tuyển chọn họ cũng rất bất lực, chỉ có thể nuốt một viên thuốc đắng. Tuy nhiên, một số tuyển thủ giỏi cũng đã được sinh ra trong lớp tân binh này.

Chế độ nhiều người chơi ra đời muộn, cải thiện chất lượng tổng thể.

Cũng có nhiều người đóng vai trò nổi bật trong lớp tân binh này, chẳng hạn như lượt chọn tổng thể thứ năm Mike Miller. Anh ấy đã chơi ở NBA 17 mùa giải và là một tay bắn 3 điểm rất giỏi. Anh không chỉ trở thành tân binh xuất sắc nhất hạng này mà sau đó còn giành được danh hiệu người đàn ông thứ sáu xuất sắc nhất. Jamal Crawford, người được chọn ở lượt chọn tổng thể thứ tám, sau này trở thành Người đàn ông thứ sáu vĩ đại nhất của năm trong lịch sử NBA. Anh ấy đã giành được danh hiệu Người đàn ông thứ sáu xuất sắc nhất tổng cộng ba lần và tổng số điểm của anh ấy rất gần 20.000 điểm. Đây là độ cao mà nhiều người chơi không thể đạt tới.

Ngoài ra, Hedo Turkoglu, người sau này đã giành được Giải thưởng Cầu thủ tiến bộ nhất, "Big Q" Quentin Richardson, nhà vô địch Cuộc thi Slam Dunk Desmond Mason, DeShawn Stevenson với người mẫu dự thảo là Jordan, "Mad Dog" Mark Madson và Jabari Smith, cha của Jabari Smith Jr. của Rockets, đều thuộc lớp tân binh này. Tuy không có siêu sao tạo nên kỷ nguyên nhưng ngoại hình của các nhân vật nhập vai đều khá ổn. Xét về chất lượng tổng thể, với sự giúp đỡ của họ, họ đã tiến bộ rất nhiều, nhưng đáng tiếc là họ vẫn không thể so sánh được với các tân binh khác nên đã trở thành lớp tân binh tệ nhất lịch sử NBA tính đến thời điểm hiện tại.